Nghiên Cứu Lâm Sàng

Dược Chất Trong An Cung Ngưu Hoàng Hoàn

Ngày đăng: 19-02-2014 04:42:30  |   Xem các bài viết của admin »
Hiện nay một số dược chất có nguồn gốc tự nhiên ở trong công thức của viên An Cung Ngưu Hoàng Hoàn rất khan hiếm do nhiều yếu tố tạo nên, vì vậy các nhà khoa học đã nghiên cứu và tổng hợp ra một số dược chất trong công thức An Cung Ngưu Hoàng Hoàn với tác dụng dược lý tương đương với dược chất có nguồn gốc tự nhiên.

1. Ngưu hoàng

Ngưu hoàng là sạn (sỏi) thấy trong túi mật của con bò có bệnh (Bos tarus var. domesticus Gmellin) hay con trâu có bệnh (Bubalus bubalis L), nhưng thường thấy ở con bò hơn. Con trâu, con bò bị ốm đau, gầy, ngơ ngác, mắt đỏ, lông dựng đứng, hay uống nước, sợ người, khi đi đầu quay nghiêng, đứng nằm thở khò khè, có người nhận xét buổi sớm nó hay nhìn ngơ ngác về phía đông. Có người cho rằng: để chậu nước trước mặt nó soi bóng, ta hét to lên một tiếng nó nhả Ngưu hoàng ra chậu. Loại Ngưu hoàng này tốt hơn thứ mổ túi mật ra mà lấy.

Khi mổ trâu, bò lấy túi mật ta chú ý nắn túi và ống mật hễ thấy có cục cứng thì nên sớm rạch túi mật ra, lọc qua rây, lấy mật riêng và Ngưu hoàng riêng. Nếu để lâu, dịch mật ngấm vào Ngưu hoàng sẽ làm Ngưu hoàng đen, phẩm chất kém.

Khi lấy được Ngưu hoàng rồi, rửa qua rượu, bọc kín phơi râm cho đến khi khô. Có người rửa qua rượu rồi thì tẩm nước gừng loãng, treo phơi râm cho khô, gói vào giấy bóng kính đựng vào hộp kín, dưới có lót vôi sống để hút ẩm. Không được phơi nắng hay sấy lửa, không được phơi ở chỗ có gió mạnh và không để ra ánh sáng, nếu không Ngưu hoàng bị nứt vỡ, sậm đen lại. Ngưu hoàng có khi to bằng quả trứng gà, bé thì bằng hạt sạn, sắc vàng, đắng, thơm, xốp nhẹ, không nứt vỡ, không đen sẫm là tốt.

Hiện nay còn có Ngưu hoàng tổng hợp bán ở thị trường quốc tế. Theo sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của GS.TS. Đỗ Tất Lợi cho rằng việc dùng Ngưu hoàng tổng hợp có tác dụng dược lý tương đương với Ngưu hoàng tự nhiên nên việc dùng Ngưu hoàng để sản xuất thuốc chữa bệnh không còn là vấn đề khó khăn như các năm trước đây.

2. Tê giác (sừng trâu)

Trong Đông y, sừng tê giác là một dược phẩm thông dụng và thiết yếu trong điều trị nhiều loại bệnh cấp tính và nguy kịch. Tuy nhiên, hiện tê giác đang đứng trên bờ vực tuyệt chủng nên hầu như không thể có vị thuốc này. Trong nhiều bài thuốc, có thể dùng sừng trâu thay thế.

Trước đây, trên thị trường, sừng tê giác được chia thành 2 loại: sừng tê giác châu Á, thường gọi là “Xiêm La giác” và sừng tê giác có nguồn gốc châu Phi, thường gọi là “Quảng giác”. Theo sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của GS.TS. Đỗ Tất Lợi, xưa kia, nước ta có nhiều tê giác, nhưng gần đây hầu như không thấy.

Về tính năng, sừng tê giác là vị thuốc có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lương huyết và chỉ huyết mạnh, thường dùng chữa các bệnh ôn nhiệt sốt cao, hôn mê nói nhảm, co giật và các chứng xuất huyết do huyết nhiệt. Trên lâm sàng, sừng tê giác có thể sử dụng phối hợp với nhiều vị thuốc khác, là thành phần không thể thiếu trong hàng loạt danh phương cổ như “Tê giác địa hoàng thang”, “Thanh doanh thang”, “Thần tê đan”, “An cung ngưu hoàng hoàn”, “Tử tuyết đan”, “Chí bảo đan”...

Hiện nay, tê giác là loài động vật quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng, đã được đưa vào sách đỏ và cấm săn bắt. Việc sử dụng sừng tê giác làm thuốc vì thế cũng đã trở thành quá khứ. Có thể dùng sừng trâu thay thế.

Sừng trâu (thủy ngưu giác) là dược liệu dễ kiếm, hầu như có sẵn ở khắp các vùng nông thôn. Nó đã được sử dụng làm thuốc từ hàng nghìn năm nay. Sách “Danh y biệt lục” viết: Sừng trâu có thể dùng chữa chứng đau đầu do thời khí nóng lạnh thất thường. Còn theo sách “Đại Minh bản thảo”, sừng trâu sắc lấy nước uống có thể trị chứng phong do nhiệt độc và sốt cao (trị nhiệt độc phong cập tráng nhiệt).

Y học hiện đại cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác dụng chữa bệnh của sừng trâu. Theo kết quả nghiên cứu tiến hành tại hàng loạt cơ sở ở Thượng Hải, Bắc Kinh (Trung Quốc) và một số thành phố khác của Trung Quốc, trong sừng tê giác và sừng trâu đều chứa 17 loại acid amin. Kết quả phân tích bán vi lượng trên máy quang phổ cho thấy, thành phần các chất hữu cơ và vô cơ trong sừng tê giác và sừng trâu cơ bản tương đồng. Qua kết quả nghiên cứu lâm sàng tiến hành trên 3.270 bệnh nhân tại 50 đơn vị nghiên cứu ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân và Quảng Đông, các nhà khoa học khẳng định việc sử dụng sừng trâu và sừng tê giác cho kết quả điều trị cơ bản như nhau đối với 30 loại bệnh: viêm não B, trẻ nhỏ sốt nóng trong mùa hè, ban xuất huyết do giảm tiểu cầu, thần kinh phân liệt... Như vậy, có thể sử dụng sừng trâu thay thế cho sừng tê giác.

Theo kết quả ứng dụng lâm sàng, sừng trâu hầu như không gây các tác dụng phụ, chỉ một số ít trường hợp xuất hiện lợm giọng, buồn nôn, trướng bụng, đau bụng và một số biểu hiện khác về đường tiêu hóa.

Theo sách “Hiện đại thực dụng Trung Dược học” do Quách Lan Trung chủ biên, sừng trâu có những tác dụng dược lý sau:

-  Làm mạnh tim (tăng cường sức co bóp của cơ tim), hạ huyết áp và làm giảm nhịp tim.

- Giảm số lượng bạch cầu, tăng lượng tiểu, cầu rút ngắn thời gian đông máu, giảm tính thông thấu của mao mạch.

- Ức chế mạnh đối với trực khuẩn e-coli (colibacillus), liên cầu khuẩn tan máu gây viêm não beta (Beta hemolytic streptococcus), bảo vệ cơ thể và chống viêm rõ ràng.

- Giảm cường độ co giật và tỷ lệ tử vong ở động vật thí nghiệm đã được tạo cơn co giật.

- Giảm tổng lượng cholesterol trong huyết thanh, đồng thời làm tăng lượng cholesterol tốt.

Trong các sách về Đông dược hiện đại, sừng trâu được xếp vào loại thuốc thanh nhiệt lương huyết, cùng với sinh địa hoàng, huyền sâm, mẫu đơn bì, tử thảo... Theo Đông y, sừng trâu vị đắng, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lương huyết; dùng chữa ôn bệnh sốt cao, hôn mê nói nhảm, kinh phong điên cuồng (thường phối hợp với sinh địa, huyền sâm, kim ngân hoa, liên kiều), chữa các chứng xuất huyết như thổ huyết, nục huyết (đổ máu cam), ban xuất huyết do huyết nhiệt (thường phối hợp với đan bì, xích thược, sinh địa).

Sừng trâu cứng, nhưng sau khi hấp khoảng 1 giờ sẽ mềm ra và có thể dễ dàng thái thành lát nhỏ (thuốc phiến); có thể chế thành dạng viên, xi-rô thuốc... Để sử dụng sừng trâu dạng thuốc phiến thay thế tê giác trong các phương thuốc cổ như “An cung ngưu hoàng hoàn”, “Tử tuyết đan”..., cần dùng liều lượng lớn gấp 10 lần sừng tê giác. Khi sử dụng trong thuốc thang, cần sắc sừng trâu trước khoảng 3 giờ, sau đó mới cho các vị thuốc còn lại vào sắc tiếp. Liều dùng: 15 - 30 g sắc nước, tán bột hoặc mài lấy nước uống. Người tỳ vị hư hàn cần thận trọng khi sử dụng.

3. Xạ hương

Xạ hương là một chất đặc lổn nhổn do hạch ở sát dương vật của một thứ cầy hương đực (có người còn gọi là hươu xạ) từ 3 tuổi trở lên (Moschus moschi-ferus L ) họ hươu xạ (Moschida). Con cầy hương giống con cầy, cao chừng 50 cm,  dài 80 - 90cm, toàn thân màu vàng tro. Nó sống bằng những cây cỏ thơm, vì vậy người ta cho rằng nguồn gốc xạ là ở các cỏ thơm đó. Đi đến đâu nó tiết xạ để nhớ đường về.

Túi xạ ở phía bụng, khoảng 2cm trước chỗ bìu dái và trước dương vật. Hình dạng túi xạ thay đổi, khi thì hình tròn, khi thì dẹt trên phủ lông như những lông khác ở bụng con cầy hương; túi xạ có một điểm sâu, đường kính chừng 5mm, tất cả lông trông như đều hướng về điểm này.

Ngoài ra, ở Việt Nam ta còn có loài cầy hương khác (Vicerricula malaccensi Gmelin) và cầy giông (Viverrazibetha, họ Viverridae), cũng có túi thơm nhỏ, người ta cũng lấy chế biến và gọi là xạ. Thứ xạ này không thơm và không tốt bằng xạ hương nói trên.

Hiện nay các nhà khoa học đã tổng hợp được xạ hương để cung cấp cho công nghiệp mỹ phẩm, dược phẩm với thành phần và tác dụng chữa bệnh như xạ hương thiên nhiên.



Nguồn:

Xem nhiều nhất

Tìm kiếm



 An cung ngưu hoàng hoàn, an cung ngưu hoàn, an cung ngưu hoàng hoàn rùa vàng an cung hàn quốc